Nghệ thuật “đấu trà”

19 lượt đã xem

Vương Trung Hiếu – Báo Thanh Niên

     Đây là cuộc thi người tham gia sẽ phải dựa vào màu sắc, hương thơm, vị ngon của trà để đoán xem đây là loại trà gì. Không những vậy, có những cuộc thi còn yêu cầu đoán chính xác tên địa phương trồng trà.

“Đấu trà” của người Trung Hoa

Đây là một trong những trò tiêu khiển vào thời nhà Đường và trở nên cực thịnh trong triều đại nhà Tống.

“Đấu trà” là một nghệ thuật, do Phạm Trọng Yêm (989- 1052) ghi lại sớm nhất vào thời Bắc Tống. Nghệ thuật này chia làm 2 loại: đấu trà cung đình, phổ biến trong giới thượng lưu và đấu trà dân gian, do những nghệ nhân tổ chức.

Quyển Trà lục của Thái Tương (1012-1067) và Đại quang trà luận của hoàng đế Tống Huy Tông (1082 – 1135) đều mô tả chi tiết về những cuộc đấu thí này, đó là những cuộc cạnh tranh cân não, “khốc liệt” để trở thành người thắng cuộc.

Ban đầu, người chơi “đấu trà” sẽ nếm trà, tập trung vào việc đánh giá chất lượng của các loại trà khác nhau, về sau thì thường là nếm thử một số tách trà và cố gắng đoán vùng xuất xứ của trà.

Khi “đấu trà”, cả hai bên lấy một tách bột trà và pha bằng cách gọi là “điểm trà”. Đầu tiên họ rắc một ít bột trà xuống đáy tách rồi cho một ít nước sôi vào, khuấy đều để tạo thành một hỗn hợp trà sền sệt, cách này gọi là “điều cao” . Sau đó họ tiếp tục đổ nước sôi vào, gọi là “điểm thang”. Khi đổ nước sôi vào, họ dùng phới tre, tức cây chổi trà (trà tiển) đập nhè nhẹ vào nước trà, khuấy đều để cho nước trà nổi lớp bọt phía trên. Nước trà thu được phải có hoa súp màu trắng sữa. Tỷ lệ trà và nước bọt phải phù hợp, làm sao để nước đều, không đều xem như thất bại.

Trong lúc thi “đấu trà”, người ta bình phán cả nước trà và hương vị trà. Màu sắc của nước trà phải là màu của trà, với màu trắng tinh khiết hiện phía trên. Tiếp theo lần lượt là trắng xanh, trắng xám và trắng vàng. Màu trắng tinh cho thấy trà tươi và mềm, nghĩa là khi hấp có hơi nóng vừa phải; hơi xanh cho thấy nhiệt không đủ khi hấp; màu xám có nghĩa là nhiệt quá già; hơi vàng nghĩa là không được thu hoạch kịp thời và hơi đỏ có nghĩa là nhiệt độ rang quá cao.

Đấu trà Trung Quốc

Cuộc thi “đấu trà” dân gian tranh cúp Tam hạc ở Ngô Châu, Quảng Tây năm 2021, thu hút gần 100 “lưỡi vàng” và 259 mẫu trà tham gia.

“Hoa canh” là thuật ngữ dùng để chỉ bọt nổi lên từ nước trà. Có hai tiêu chí để xác định chất lượng của hoa canh: thứ nhất là màu sắc của hoa canh, có màu trắng sáng ở phía trên, thứ hai là sau khi hoa canh xuất hiện thì sớm hay muộn cũng xuất hiện các vết nước.

Nếu bột trà được xay mịn, nước bọt vừa phải, nước trà đều và mịn thì có thể vết nước đọng lại, hiện rõ ở thành chén, gọi là “cắn chén” (giảo trản). Ngược lại, nếu hoa canh mọc lên mà không cắn được thì sẽ nhanh chóng lây lan. Ngay sau khi hoa bọt được phân tán, “vết nước” (thủy ngấn) được tiếp xúc ở nơi mà nước trà và chén gặp nhau.

Dấu nước xuất hiện càng sớm thì người chơi thua cuộc, còn người nào có vết nước sau thì thắng. Vì vậy, thắng hay bại của cuộc “đấu trà” đều được tính bằng “thủy”, một lần thua là “một nước”, hai lần là “hai thủy” và cứ thế mà tính.

Trong triều đại nhà Tống, trà trắng rất được coi trọng. Nhiều người tranh giành độ trắng của nước nóng khi pha trà. Đây là loại trà trắng duy nhất của triều đại nhà Tống, không giống như cách phân loại trà trắng hiện nay mà ta thường gọi là Bạch trà.

“Đấu trà” của người Nhật Bản

Đây là hình thức thi đấu, cũng là một thú chơi tinh thần trong giới Samurai của Nhật Bản, đã có lịch sử gần 700 năm nay. Đấu trà được tổ chức và được ưa chuộng tại Kyoto, sau đó lan đến những nơi nổi tiếng về trồng trà như Shizuoka và dần dần lan rộng ra cả nước.

Nước Nhật biết đến đấu trà vào thời kỳ Kamakura (Liêm Thương thời đại, 1185–1333). Ở Nhật, người ta còn gọi cuộc thi này là Hồi trà, Ẩm trà thắng phụ, Trà ký hiệp, Trà thang thắng phụ và Cống trà.

Ban đầu, mục đích là để phân biệt trà chất lượng cao của vùng Tạp Đông thôn với các loại trà khác, tuy nhiên khi phát triển đến cực thịnh thì nghệ thuật đấu trà nhằm vào việc xác định đúng nơi sản xuất trà bằng cách pha trà, uống trà và đoán xuất xứ từ hương thơm và mùi vị.

Nam-Bắc triều chính là thời kỳ hoàng kim của đấu trà, đến đầu thời đại Thất Đinh thì cách thi phổ biến nhất là Tứ chủng thập phục trà, nghĩa là sử dụng tổng cộng 4 loại trà (3 loại trà hạt và 1 loại trà khách). Đầu tiên là 3 loại trà hạt “Ichinocha”, “Ninocha” và “Sannocha”.

Mỗi người tham gia phải nếm và kiểm tra mùi vị, hương thơm. Tiếp theo, pha tổng cộng 10 túi trà, tổng cộng 3 loại trà (mỗi loại 3 túi) và 1 túi từ loại trà của khách. Những người tham gia phải trả lời liệu 10 túi trà có giống với lần nếm thử đầu tiên là “Ichinocha”, “Ninocha”, “Sannocha” hay không, hoặc liệu chúng có phải là các loại trà của khách hay không, người nào trả lời đúng nhiều nhất sẽ là người chiến thắng với giải thưởng gồm có lụa, vũ khí, vàng và đồ trang sức.

Có những cuộc đấu trà quy mô, đòi hỏi người chơi phải thi nhiều lần, chẳng hạn như cuộc thi Bách phục trà, còn gọi là Bách chủng trà của Sasaki Takauji. Ngoài ra còn nhiều cách thi đấu tầm cỡ khác.

Do người thi đấu phải uống rất nhiều trà, thường là 10 hoặc 50 tách, nên cuộc thi còn những tên khác gọi là juppukucha (10 tách trà) và gojuppukucha (50 tách trà). Nhân viên phục vụ đem chén hoặc tách chứa sẵn trà bột ra cho khách. Khi khách đã ngồi vào chỗ, họ sẽ đổ nước nóng vào tách và đánh bông trà để chuẩn bị.

Một trong những ví dụ sớm nhất về đấu trà là bài giảng Hoa viên viện thần ký của Thiên hoàng Hanazono, viết ngày 18.11.1324, vào cuối thời Kamakura. Tám năm sau, Hoàng đế Kogon viết bài Quang Nghiêm thiên hoàng thần ký (Hồi ký của Hoàng đế Kogon) vào tháng 6 năm 1332, cho biết triều đình cũng đã tổ chức đấu trà. Ngoài ra, Thái bình ký (Taihei-ki ) viết rằng thi hào Tá Tá Mộc Đạo Dự (Sasaki dōyo) đã mở một cuộc thi đấu trà quy mô, với giải thưởng lớn là Bách phục trà.

Từ giữa thế kỷ 15, khi văn hóa Đông Sơn (Higashiyama bunka, 1436-1490) chuyển đổi, đấu trà bắt đầu suy giảm. Tuy nhiên, do nhóm Kabuki yêu thích nên từ thế kỷ 17, việc đấu trà có tên mới là trà Kabuki. Điều này được ghi nhận trong Ca vũ kỹ trà và trở thành một phần của nghi thức Trà đạo sau đó.

Đoán tên của 3 loại trà

Đề bài là đoán đúng tên của 3 loại trà: 煎茶 (sencha), 玉露茶 (Gyokuro-cha), 玄米茶 (genmai-cha).
Ảnh: Đỗ Phương.

Các cuộc đấu trà có thể ồn ào, náo nhiệt giống như cờ bạc, song có thể xem là bước đệm giữa việc sử dụng trà để chống buồn ngủ của Phật giáo Thiền tông và trà đạo thế tục, kể từ khi nó lần đầu tiên phổ biến việc uống trà bên ngoài các tu viện.

Trong cuộc thi Kabuki đấu trà hiện đại, người chơi phải trả lời đúng nguồn gốc của 5 loại trà, quy tắc này không thay đổi ngày nay. Tại thị trấn Nakanojo, tỉnh Gunma, tục lệ đấu trà Bạch cửu bảo trà giảng được coi là tài sản văn hóa dân gian phi vật thể quan trọng của đất nước Nhật Bản.

Do người thi đấu phải uống rất nhiều trà, thường là 10 hoặc 50 tách, nên cuộc thi còn những tên khác gọi là juppukucha (10 tách trà) và gojuppukucha (50 tách trà). Nhân viên phục vụ đem chén hoặc tách chứa sẵn trà bột ra cho khách. Khi khách đã ngồi vào chỗ, họ sẽ đổ nước nóng vào tách và đánh bông trà để chuẩn bị.