Trời có ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Con người có ngũ tạng phổi, gan, thận, tim, lá lách. Trong trà lại vừa vặn có ngũ sắc trắng, vàng, đen, hồng (đỏ), xanh. Ngũ sắc lại sinh ra ngũ vị cay, ngọt, mặn, đắng, chua. Ngũ hành, ngũ tạng, ngũ sắc, ngũ vị này liền cấu thành nên một “vòng dưỡng sinh và dưỡng tâm” vô cùng đặc biệt.
Trà Sen (Ảnh: Lê Hải)
Sự ảo diệu trong tác dụng dưỡng sinh, dưỡng tâm của trà
Trà có thể dưỡng sinh và dưỡng tâm. Điều này được ghi chép rất chi tiết tỉ mỉ trong rất nhiều sách về trà và sách y dược thời cổ đại. Trong “Cật trà dưỡng sinh ký” ca ngợi điểm “không tầm thường” của trà rằng: “Trà! quý thay, trên thông với cảnh giới Thần linh, dưới có thể cứu giúp người khi bị độc.”
Trà được xem là một loại vật cao quý thánh khiết, trên có thể thông với Thần linh, cảnh giới trên trời, dưới có thể cứu giúp người khi bị độc, là tiên dược trị được bách bệnh.
Trong “Hoàng Đế nội kinh” đã sớm chỉ ra rằng, màu xanh thuộc mộc và là màu của gan, màu hồng (đỏ) thuộc hỏa là màu của tim, màu vàng thuộc thổ là màu của tì (lá lách), màu trắng thuộc kim là màu của phổi, màu đen thuộc thủy là màu của thận.
Thời Tống, Trần Trực ghi chép trong “Thọ thân dưỡng lão thư”: Vô luận là loại phương pháp dưỡng sinh nào, lý luận và ăn uống đều có thể dùng học thuyết Ngũ hành thời cổ đại để giải thích. Hơn nữa có thể dựa vào nền tảng là học thuyết Ngũ hành để nâng cao cấp độ. Trà cũng như vậy.
Trà, đặc biệt là Trà Trung Hoa thường được chia làm sáu loại là Hắc Trà, Bạch Trà, Hồng Trà, Lục Trà, Hoàng Trà và Thanh Trà. Trong đó Thanh Trà là loại trà thuộc Lục Trà. Cho nên, Trà Trung Hoa thực tế là có 5 loại trà “Ngũ sắc trà” là Hắc Trà, Bạch Trà, Hồng Trà, Lục Trà, Hoàng Trà. “Ngũ sắc trà” này có thể làm dịu Ngũ tạng, đạt đến mục đích cuối cùng là giúp con người khỏe mạnh, tâm thân an hòa. Dùng Ngũ hành tương sinh tương khắc để điều hòa vạn vật trong Trời Đất, đây cũng chính là bản chất thực sự của việc uống trà dưỡng sinh, dưỡng tâm của cổ nhân.
1. Lục Trà
Lục Trà (trà xanh) là lá trà chưa trải qua quá trình héo và ôxi hóa. Ở Trung Quốc, sản lượng trà xanh là lớn nhất, chủng loại cũng nhiều nhất và được sử dụng rộng rãi nhất. Đặc điểm của trà xanh khi pha là nước thanh trong, lá trà có màu xanh.
Trong Ngũ hành, Lục Trà thuộc mộc, vị toan, mùi hương thơm ngào ngạt. Khi uống, Lục Trà nhập kinh can, can chủ tàng huyết, cho nên Lục Trà không chỉ giúp cho mắt sáng mà còn có thể thanh huyết, giúp chống tắc động mạch.
Trung y cho rằng: Mùa xuân là mùa sinh sôi của vạn vật, cơ thể con người vừa trải qua một mùa đông “khép kín”. Hàn tà khí vốn được tích tụ trong cơ thể lúc này gặp mùa xuân liền phát ra. Nhiều người sẽ vì “Can dương thượng cang” (một loạt biểu hiện lâm sàng do âm không phối dương của tạng can dẫn đến). Nên thích hợp uống trà xanh vào mùa xuân giúp thanh nhiệt trừ hỏa.
2. Hồng Trà
Hồng Trà là loại trà đã trải qua quá trình ô xi hóa hoàn toàn, có đặc thù là nước đỏ và hương vị ngọt ngào. Trong Ngũ hành, Hồng Trà thuộc hỏa, vị đắng. Khi uống, Hồng Trà nhập kinh tâm, cho nên Hồng Trà giúp làm giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch.
Trung y nói: Mùa hạ là mùa cây cối tươi tốt, là mùa trời, đất, khí hòa hợp, vạn vật sinh trưởng mạnh, nắng gắt như lửa, ngày dài đêm ngắn, nước trong cơ thể con người tiêu hao rất nhiều, khí huyết phần nhiều không đủ, tâm trạng phiền muộn, lo âu. Mùa này thích hợp uống Hồng Trà vì Hồng Trà lạnh giúp giảm nhiệt độ cơ thể, giải nhiệt, nâng cao tinh thần, giúp tim khỏe mạnh, dưỡng huyết.
3. Hoàng Trà
Hoàng Trà là loại trà đã được lên men, có đặc điểm là lá vàng, nước vàng. Trong Ngũ hành, Hoàng Trà thuộc thổ, có vị ngọt, hương vị ngậy. Khi uống, Hoàng Trà nhập kinh tì, thông với kinh dạ dày. Cho nên, Hoàng Trà giúp điều dưỡng tì vị, trợ giúp tiêu hóa. Hoàng Trà thích hợp uống vào thời điểm giao mùa hạ và mùa thu.
4. Bạch Trà
Bạch Trà là loại chè chế biến tối thiểu từ các búp chè màu bạc và lá được chọn kỹ lưỡng, sau đó được hấp chín và sấy khô. Nhờ chế biến tối thiểu, bạch trà còn chứa nhiều chất dinh dưỡng. Bạch Trà có tên gọi từ lớp lông tơ màu bạc trắng mịn phủ lên chồi chưa mở của cây chè. Bạch Trà có hương vị nhẹ, tinh tế và hơi ngọt.
Về Ngũ Hành, Bạch Trà thuộc Kim. Khi uống, Bạch Trà nhập kinh phế , thông kinh đại tràng, phế chủ bì mao. Cho nên Bạch Trà có tác dụng giải nhiệt, tán độc, hạ hỏa, thích hợp uống vào mùa thu.
Trung Y nói: Mùa thu là mùa vạn vật xơ xác, tiêu điều, khiến miệng và lưỡi con người đều khô, cổ họng có cảm giác đắng, dễ phát sinh bệnh về hô hấp. Bạch Trà tính lạnh, có thể hạ hỏa, lợi niệu, nâng cao khả năng miễn dịch của cơ thể. Cho nên, mùa thu thích hợp để uống Bạch Trà.
5. Hắc Trà
Hắc Trà có màu đen vì lá trà đều bị oxy hoá 100% trong thời gian tương đối dài. Về ngũ hành, Hắc Trà thuộc thủy, có vị mặn chát. Khi uống, Hắc Trà nhập kinh thận, đi vào kinh bàng quang. Thận là ngọn nguồn của sự sống, là gốc của nguyên khí và cũng là vốn liếng, sức khỏe của con người. Cho nên, Hắc Trà có tác dụng kéo dài tuổi thọ của con người. Bàng quang là kinh mạch bài tiết của nhân thể, cho nên Hắc Trà giúp giảm cân, tiêu mỡ, thích hợp uống vào mùa đông, kích thích tiêu hóa.
Trung Y nói: Mùa đông khí của trời đất bị phong kín, nước đóng băng, dương khí dần dần bị tiêu tan, vạn vật ngủ đông, nhu cầu dĩnh dưỡng và năng lượng của nhân thể cần cao. Hắc Trà có thể giữ dương khí, kiện vị, làm ấm bụng nên thích hợp uống vào mùa đông.
Học cách uống trà trở thành chuyên gia dưỡng sinh, dưỡng tâm cho bản thân
Ngũ hành đối ứng với ngũ sắc, ngũ sắc chủ trì ngũ tạng, dùng ngũ sắc trong trà làm tăng năng lượng cho ngũ tạng của thân thể, giúp cả thân và tâm đạt đến trạng thái cân bằng. Hiểu biết đạo lý này, mỗi người đều có thể lựa chọn cho mình một loại trà thích hợp để dưỡng sinh và dưỡng tâm.
An Hòa (dịch và t/h)