Tết những năm xưa

17 lượt đã xem

     Từ ngày 23 tháng chạp – ngày ông Táo lên chầu giời, người ta đã tưng bừng sắm sửa, chuẩn bị đón Tết cổ truyền. Bàn thờ Táo quân đặt bên cạnh bàn thờ chính thờ tổ tiên cha mẹ, có đặt hai cái mũ Táo quân ông và một mũ Táo bà. Thêm vào đó có 3 chiếc áo, tất cả đều bằng giấy nhiều màu sắc. Lại có một con cá chép sống trong một chậu nước. Đó là phương tiện để các vua bếp bay lên thiên đường báo cáo với Ngọc Hoàng về cuộc sống trần gian. Chiều ngày 28 tháng chạp, nhiều gia đình đi thăm những ngôi mộ của người thân để tỏ lòng biết ơn và quyến luyến: “Nắm xương cô quạnh còn ân ái”. Họ mời vong linh những người đã khuất về ăn Tết với gia đình trong bà ngày Tết, kể từ ngày mùng một tháng giêng. Ở các nghĩa trang, cánh đồng, người ta đốt vàng thoi, vàng lá và hàng mã, thắp hương nghi ngút. Lúc đó, khắp nơi thấp thoáng những làn hương khói, những tàn vàng lá bay lơ lửng, không khí đượm màu hoài tưởng, quạnh hưu: “Vàng bay mấy lá năm hồ hết…”

Ở ngoài đình hoặc nơi công cộng, người ta trồng một cây nêu cao vút có một vòng tròn mắc nhằng nhịt các con vật bằng giấy xanh, đỏ với những chiếc khánh nhỏ gây ra tiếng lanh canh vui tai khi gió thổi. Cây nêu được dựng lên để cho ma quỷ và những hồn người hung ác biết rằng đây là đất của nhà Phật, không được đụng tới. Nhiều gia đình con cẩn thận hơn nữa, vẽ mũi tên trên cánh cung giương ra ở trước cửa bằng vôi trắng để đe dọa kẻ xấu. Hai cánh cửa của các nhà được dán lên hai bức tranh có hai ông tiến Tài, tiến Lộc hoặc hai ông tướng canh cửa gọi là ông Thiện và ông Ác.

Nói chung, Tết những năm xưa được gói gọn trong đôi câu đối:

         “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ

         Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”

Hoặc “dữ dội” hơn:

         “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ

         Rượi nồng, dê béo, gái xuân xanh”

Chiều 30 Tết, mọi việc như dọn dẹp bàn thờ, quét tước nhà cửa, bàn thờ có cành đào, cành mai, mâm ngũ quả; cột nhà có đôi câu đối giấy đỏ chữ đen, dán tranh Tết vv…Những công việc này phải làm xong cùng với việc có đủ các món ăn truyền thống như bánh chưng, dưa hành, giò, chả, thịt đông, thịt bò om gừng, các loại bánh, các thứ hoa quả… Nhưng không được quên dựng hai cây mía dài, đẹp gọi là gậy ông vải. Tết cũng gắn liền với hoa nên người ta đua nhau trồng thêm mấy khóm cúc, hoa mẫu đơn, hoa trà, sửa sang lại vườn hoa cây cảnh, hòn non bộ. Người ta tắm một buổi tất niên bằng nước ấm có hương thơm của cành mùi hoặc hương nhu. Đồng thời, giết một con gà giò để làm lễ cúng giao thừa ngoài trời. Ngày mùng một, mùng hai, người ta kiêng sát sinh, không động thổ, quét tước gì để giữ cho màu sắc Tết không bị mất đi quá sớm. Nhất là giữ lại những đám xác pháo màu đỏ hồng đầy sân.

Gói bánh chưng

Gói Bánh. Ảnh: Vũ Anh Dũng.

Chiều 30 Tết, cả nhà quây quần sum họp. Những thành viên đi xa cũng cố gắng trở về họp mặt. Họ ăn với nhau một bữa tất niên rồi ai nấy chuẩn bị những bộ quần áo và các đồ trang sức đẹp nhất. Với trẻ con các nhà trung lưu thường là quần đào xẻ đủng, áo hàng lam. Họ chuẩn bị gói những đồng xu, tờ giấy bạc mới tinh vào những miếng giấy hồng điều để ngày mùng một mở hàng cho mọi người trong gia đình và trong họ. Trong những lúc này, họ nói chuyện với nhau về đủ mọi chuyện trên đời, trong cuộc sống và rút kinh nghiệm, đặt quyết tâm cho năm sau sẽ đến trong vài tiếng đồng hồ nữa. Đúng 12 giờ đêm là giờ Tý, mọi nhà đều đốt pháo giã từ năm cũ, đón mừng năm mới, thắp đèn hương cúng ông bà ông vải, người thân đã khuất. Ở ngoài sân cũng có bàn thờ cúng trời đất với hương hoa, đĩa xôi trắng, con gà mỏ cắm đóa hoa hồng. Người ta đi dạo giữa thiên nhiên, cảnh vật đất trời để tận hưởng không khí xuân tươi mát gọi là đi “xuất hành”. Người ta ngắt lấy một cành lá, một nhánh lộc nhỏ, cành cây non mang về gọi là “hái lộc xuân”. Gia chủ đã hẹn sẵn một người bạn thân của gia đình đến “xông đất”, nghĩa là người đó là người đầu tiên bước vào gia đình trong năm mới. Người đến xông đất phải là nam giới, có con cái, làm ăn khá giả, tính tình cởi mở gọi là người “nhẹ vía”. Người đến xông đất chúc tết gia chủ và có “mở hàng” cho gia chủ. Những người có tang gọi là “có bụi” không đến nhà ai trong những ngày Tết.

Sáng mùng một, lúc 5 giờ, các chủ gia đình đến lễ tổ tại nhà thờ họ, “mừng tuổi” cho người trông nom nhà thờ họ rồi mới ra về. Tại các gia đình, người bố phong bao cho các con, sau đó các thành viên trong gia đình mới đi chơi, chúc tết các gia đình khác và bạn bè.

Các bà, các chị có thể đi lễ ở đình, ở chùa. Đôi khi họ xóc thẻ, miệng cầu khấn rì rầm, tay lắc ống thẻ sao cho có một thẻ rơi ra ngoài. Chiếc thẻ đó tương ứng với một lời giải về tương lai ghi trên giấy. Đàn ông có thể đánh tổ tôm, đánh chắn. Các cô gái đánh tam túc. Các cô nhắm mắt lại, rút một quân bài đầu năm trong số 32 quân bài. Nếu quân rút được là quân đỏ thì năm mới, người rút được nó sẽ có điều may mắn về đường tình duyên, gọi là bói “tam cúc”.

Các cụ chơi tam cúc

Các bà, các chị chơi “Tam Cúc”. Ảnh: Tran Duc Anh Son.

Chiều ngày mùng ba Tết, gia đình làm lễ tiễn tổ tiên trở về âm phủ và hẹn gặp lại trong những ngày lễ, tết trong năm và Tết năm sau. Người ta đôt vàng, những quần áo và đồ dùng bằng giấy để tổ tiên mang theo. Trong những ngày Tết, mọi người kiêng nói những điều không hay. Người ta sống rất “thiện”, lịch sự, lễ phéo, tôn trọng trên dưới, vì tổ tiên, ông bà cũng cùng về dự Tết với con cháu. Đó là cuộc sống vừa “tâm linh” vừa “thực tại”. Trong những ngày Tết, người ta không đánh nhau, cãi nhau, xóa bỏ mọi hận thù, xích mích. Những người nghèo được bà con anh em xung quanh giúp đỡ để cũng có Tết. Những người hành khuất chỉ cần đứng gần cửa một gia đình rồi nói vài lời chúc Tết may mắn là đã được mọi người trong gia đình mang ra cho bánh chưng, xôi, thịt,… Mọi người thường nói:

         “Khó đói chẳng lo ba ngày Tết

         Giàu sang rộng mở tấm lòng thương…”

Ngày 7 tháng giêng là ngày hạ cây nêu, mọi người cùng tụ tập, gặp nhau ở các nơi như đền, chùa, đình, miếu, các bãi rộng là những nơi thường tổ chức những cuộc vui xuân, tế lễ, rước xách, hát tuồng, hát chèo,vv… Những nơi đây còn là nơi để trai gái hẹn hò, trao duyên trong những ngày xuân tươi đẹp và lẳng lơ rất mực. Mọi người rủ nhau đi chơi xuân, sang làng nọ làng kia, mở rộng sự quen biết và kết bạn. Gia đình người con trai sang chúc tết gia đình người con gái và ngược lại.

Những người muôn năm cũ

“Ông Đồ” tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội, Tết Canh Thìn, 2000. Ảnh: Tran Xuan Minh.

Đến ngày rằm tháng giêng là ngày đẹp nhất trong cả năm, là ngày có trăng tròn đầu tiên của một năm, lại là ngày những người ở dưới âm phủ được “tháo khoán” nên tranh thủ về dương gian với những người thân. Ngày nay, các vị thần thánh mở rộng lòng từ bi. Ngay cả ma quỷ cũng không dám trừng phạt, hành hạ con người, kể cả người sống lẫn chết.

Trong những ngày Tết, người ta sống với bốn từ: thiện, khiết, hòa và vọng; có nghĩa là lương thiện, trong sạch, đẹp, hòa hợp và hi vọng.

Tác giả: Lý Khắc Cung.