Uống chè xanh – tập quán cần bảo tồn và phát huy

15 lượt đã xem

     Chè xanh – một thức uống bình dân, được chế biến từ lá chè tươi, đã được ưa chuộng và sử dụng từ lâu đời ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi và tại nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, uống chè xanh là một thói quen, một tập quán văn hóa độc đáo trong đời sống người dân xưa và nay.

Chè xanh trở thành đồ uống khai vị của hầu hết các quán cafe, quán giải khát hay nhà hàng, quán ăn. Chè xanh luôn là sự ưu tiên chọn lựa không chỉ của người già, giới trung niên mà còn của giới trẻ.

Thái Nguyên là vùng đất được mệnh danh “Đệ nhất danh trà”. Các sản phẩm trà của Thái Nguyên đã chiếm lĩnh thị trường trong nước và đến với bạn bè Quốc tế. Ai đã một lần uống trà BắcThái thì không thể quên màu nước xanh trong pha chút vàng chanh tinh khiết, hương thơm dịu nhẹ, vị đượm nồng, khi mới uống thấy chát nơi đầu lưỡi, nhâm nhi đôi chút thấy ngọt nơi cuống họng và như có men say, làm cho người uống sảng khoái, ngây ngất.

Với nhiều vùng chè nổi tiếng như: Tân Cương, La Bằng, Trại Cài, Tức Tranh, Vô Tranh, Phúc Thuận … Với chất lượng tốt nên chè Thái Nguyên đã tự cung tự cấp phần lớn nguyên liệu sản xuất trà cho các cơ sở kinh doanh trà trên cả nước.

Những vùng chè Thái Nguyên sử dụng làm nguyên liệu sản xuất trà thì hoàn toàn có thể yên tâm về chất lượng. Song, để có bát nước chè xanh ngon, dịu mát và thơm lành thì chè Thái Nguyên có đáp ứng được không?

Thực tế cho thấy, những vùng trồng chè ở Thái Nguyên đều là vùng đồi cao với chất đất phù hợp, có lượng bức xạ nhiệt và độ ẩm thích hợp cho sự phát triển của cây chè. Bởi thế, chè Thái Nguyên đã làm nên những sản phẩm trà nổi tiếng và những bát nước chè xanh có “hậu” – mới uống hơi chát miệng, sau có dư vị ngọt ngào, làm ấm lòng người thưởng thức.

Hiện nay, người kinh doanh chỉ quan tâm đến chè xanh với tư cách là nguyên liệu cho những sản phẩm trà. Chè xanh được thu hái với mục đích chính là sản xuất những sản phẩm trà danh bất hư truyền. Ngoài ra, chè xanh còn được sử dụng phổ biến với mục đích làm thức uống – nước chè tươi. Cũng là chè xanh nhưng giống chè này người ta trồng để hái cành. Hiện nay, ở Việt nam nói chung và tại Thái Nguyên nói riêng, chưa có một vùng chè với quy mô lớn trồng loại chè này để phục vụ và bảo tồn tập quán, thú uống trà xanh của đông đảo người dân trong cả nước. Vẫn chỉ là những vườn chè nhỏ, được trồng manh mún. Những vườn chè này có thể bị dẹp bỏ bất cứ lúc nào nếu gia chủ cần đất để phát triển kinh tế. Khi đó, nguyên liệu pha chế những bát chè xanh thơm ngon, dịu mát sẽ không còn. Và uống chè xanh sẽ chỉ là thói quen có thể bị lãng quên, không còn là một tập quán độc đáo, một nét đẹp trong văn hóa trà Việt.

Thú uống chè xanh đã ăn sâu vào đời sống của mọi tầng lớp người dân Việt. Họ coi uống chè xanh là uống nước “năm cho” tức là: cho chát, cho xanh, cho thơm, cho nóng, cho vui. Đa phần mọi người uống theo thói quen với ý nghĩ chè xanh – chè tươi rất tốt cho sức khỏe. Để phát huy hết tác dụng và ý nghĩa của việc uống chè xanh, người uống cần pha chế đúng cách và uống đúng liều lượng.

Nước chè xanh ngon phải có màu xanh sóng sánh, vị thơm nhè nhẹ lan toả, chỉ ngửi thôi đã làm say đắm lòng người. Để có những cốc chè xanh như vậy khâu quan trọng nhất là chọn lá chè. Cây chè cao hay thấp đều dùng được nhưng phải chọn hái những cây chè mọc ở nơi có ánh mặt trời; lá chè để nấu nước không được non quá bởi như vậy nước sẽ chóng nhạt, uống không đượm; không lấy lá già quá vì nước sẽ bị đen và không thơm. Không nấu nước chè tươi bằng lá của những cây chè chuyên hái búp bởi nước sẽ đắng. Những cây chè mọc trên đồi cao, nhiều nắng thì nước sẽ ngon.

Chúng ta biết đến bát nước chè xanh đậm đà của xứ Nghệ hay tập quán uống chè xanh độc đáo ở Tiên Lữ, Vĩnh Phúc. Còn tập quán uống chè xanh và bát nước chè xanh trên quê hương “Đệ nhất danh trà” thì sao?

Bát nước chè xanh nơi đong đầy nắng gió

Tôi lớn lên nơi dải đất miền Trung đong đầy nắng gió. Nơi ấy, từng giọt mồ hôi cũng dệt nên mùa màng, từng nỗi nhớ dệt nên tình yêu, từng bát nước chè xanh dệt nên phong vị quê nhà… Thử hỏi, nơi đâu có vị nước đậm đà, ngọt đắng mà ấm áp tình người như bát nước chè xanh Hà Tĩnh mình.

Sáng thức giấc, việc đầu tiên của mỗi nhà là đánh bộ cốc chén sáng loáng và chuẩn bị ngay ấm nước chè xanh. Ở quê tôi, đứa trẻ cũng biết cách chọn cành chè để hãm được ấm nước ngon và dĩ nhiên, uống nước chè “sành sõi”. Chè phải thật tươi, mới hái, cành nhỏ, lá dày. Nước chè ngon khi rót ra có màu xanh trong vắt, chút hương thơm quyện trong làn hơi nóng bốc lên, uống vào có vị chan chát, ngòn ngọt đầu lưỡi.

Người dân quê tôi còn có cách uống nước chè độc đáo. Ấy là bát nước chè xanh pha một ít mật mía. Những khi đi làm về mệt, chỉ chừng ấy thôi cũng đem đến cho người uống cảm giác tỉnh táo, sảng khoái và sau vị chát là vị ngọt ngào thấm sâu, lan tỏa còn đọng lại.

Vốn là vùng quê suốt đời quăng quật bởi gió lào, người dân quê tôi nghèo thóc lúa nhưng lại giàu tình làng nghĩa xóm. Bát nước chè xanh, miếng trầu đỏ môi đã gắn kết họ lại với nhau. Mỗi lần hội làng, họp xóm mà không có bát nước chè xanh thì coi như mất vui. Bây giờ, kể cả những đám hiếu, hỉ, ngoài những thức uống có ga, có cồn, ấm nước chè xanh vẫn không thể thiếu. Bên ấm nước chè xanh, những câu chuyện xóm làng nối dài theo ánh trăng trôi về phía xa. Cũng bên ấm nước chè xanh, người ta truyền nhau cách làm ăn, thông tin cho nhau chuyện đồng áng, chuyện đất nước. Bao buồn, vui cứ thế san sẻ. Ngụm nước chè bên chiếc chõng tre mộc mạc gợi nhớ biết bao tình.

Không ngoa khi nói rằng, người dân quê tôi “nghiện” nước chè. Mỗi ngày không có bát nước chè, thấy “nhạt mồm, nhạt miệng”. Mà cũng không chỉ những lúc nghỉ ngơi họ mới thưởng thức, cả những khi ra đồng làm lụng, các lão nông vẫn không quên mang theo một ấm nước chè xanh.

Chẳng biết tự bao giờ, bát nước chè xanh gắn bó với đời sống vật chất và tinh thần người dân quê tôi. Tự nhiên như hạt lúa, củ khoai, bát nước chè xanh làm nên một góc “hồn quê” trong mỗi thế hệ.

Có lẽ thế mà không phải ngẫu nhiên, quán nước chè ven đường ở những thành phố lớn vẫn là nơi hấp dẫn những kẻ xa quê như tôi tìm đến. Mà cứ nhất thiết tìm được quán nước chè chứ chẳng phải quán nước trà, dù có là trà hoa sen. Nhấm nháp ngụm nước chè chan chát, ngòn ngọt ở quán cóc bất chợt ven đường, ta nghe như có tiếng ru hời của mẹ, lời căn dặn của cha, tiếng bà con chòm xóm giữa mùa gặt trưa hè… Một góc hồn quê mát lành cho tôi sự bình yên giữa xô bồ phố thị.

Vẳng đâu đây câu hát ai ngân nga gợi bao niềm thương, niềm nhớ. “Quê tôi nắng đỏ đồng, mưa thấm cả bùn non, quê tôi gừng cay muối mặn níu bao đời câu hát buồn vui… Ngọt đắng… Gốc đa sân đình, đò chiều mẹ đợi, chè xanh mời gọi thơm cả làng ta…”. (*)

Qua đó thấy rằng uống chè xanh là nét văn hóa trà độc đáo của dân tộc Việt. Chén chè xanh – chè tươi có “hậu”, đậm đà tình người và hồn quê đất Việt, góp phần phát triển và bảo tồn tập một tập quán độc đáo, một nét đẹp trong văn hóa trà Việt.

Tác giả: Hoài Thu – Thu Hà