Suy ngẫm về trà Việt

18 lượt đã xem

Hà Văn Thùy

     Với người dân quê Việt, thức uống quen thuộc nhất là nước chè tươi. Vào nào ngày Hai, ngày Năm và ngày Mười âm lịch hàng tháng, bu tôi thường đi chợ Neo và bao giờ cũng mua về một nón chè. Vâng, nón chè đơn vị đo lường được cho là duy nhất thứ cây nhà lá vườn này. Mua chè, bao giờ bà cũng chọn chè Cao Mộc. Quê tôi có phương ngôn: “Gạo làng Mè, chè Cao Mộc” chẳng hiểu làng Mè tôi có lắm thóc nhiều gạo không nhưng tôi biết chắc rằng chè Cao Mộc đúng là thứ quý. Không to mà cũng không xanh ngằn ngặt như chè nơi khác, lá chè Cao Mộc có độ lớn trung bình nhưng khác hẳn chè mọi nơi ở màu vàng của đồng  thau. Không phải màu vàng héo úa mà cái màu vàng trong đầy sức sống, ẩn tàng tinh chất đặc biệt, chỉ có ở thổ ngơi làng quê nhỏ Cao Mộc. Phiến lá dày, hơi cứng nhưng giòn. Chè rửa sạch, để ráo nước, vò cho dập, bỏ vào ấm tích, đổ nước sôi rồi ủ kỹ trong ấm giành đan bằng tre, lót bông. Lúc sau rót ra chén tống hay bát sứ, được thứ nước vàng sánh. Từ bát nước chè đặc cắm tăm tỏa ra mùi hương thơm nhẹ nhưng sâu lắng mà tinh khiết. Uống chè, thoạt đầu thoáng một chút chát nhưng rồi vị ngọt ngào thấm vào đầu lưỡi. Trưa nắng, đi làm về uống bát nước chè người bỗng tĩnh táo khoan khoái.

Thiếu nữ pha trà

Thiếu nữ pha trà.

Dân quê thường uống nước chè tươi hay nụ vối. Trong những dịp lễ lạt, có khách quý, ở những nhà khá giả mới dùng chè mạn, đó là thứ cao sang mỹ vị, nghe nói được mua từ bên Tàu.

Sau này lớn lên, uống nhiều thứ trà thiên hạ, tôi biết rằng, ngoài chè tươi miền quê nào cũng có, thì nước ta có hai dòng chè mạn: dòng Tây Bắc với Phú Thọ, Nghĩa Lộ, Yên Bái, Lào Cai. Dòng Việt Bắc với Thái Nguyên. Chè Tây Bắc cho nước màu nâu vị đậm. Chè Thái cho nước trong mà vị thanh.

Thông tin kinh tế nhiều năm cho thấy diện tích, năng suất, sản lượng chè mỗi năm một tăng nhưng thật đáng buồn cây chè Việt cũng truân chuyên như người dân trồng chè. Như nhiều cây trồng khác, cây chè không nuôi nổi người trồng. Xuất cảng lượng lớn chè ra thế giời nhưng chè Việt vẫn là vô danh tính giữa những nhãn hiệu Trung Hoa. Đấy là chưa kể những tên trà huyền thoại như trinh nữ trà, trảm mã trà…đắt như vàng mà ta chỉ biết nghe mà mơ ước!

Vì sao vậy? Vì sao người Trung Hoa làm được những loại trà danh giá? Nhiều lần tôi tự hỏi phải chăng do thổ nhưỡng, do khí hậu nơi đất lạnh, cằn khô khiến cho cây chè phải mất nhiều năm tháng căm gho chắt lọc tinh chất của Trời, của Đất mới làm nên sự đặc sắc của chè? Phải chăng người dân Trung Hoa nơi vùng cao xứ lạnh kham khổ bền chí sống chết với cây chè đã tìm ra bí quyết chế chế những thứ danh trà? Phải chăng như người ta nói, trồng chè, uống chè là của người Tàu truyền sang mà dân ta chỉ là thứ học trò dốt không bao giờ học được nghề?!

Rồi khi đi sâu tìm cội nguồn dân Việt, tôi may mắn đọc được câu chuyện gần như thần thoại: “Chúng ta biết nhiều về làng Bán Pha, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc nơi phát hiện mộ Tân Thủy Hoàng với hàng nghìn tượng lính đất nung cùng nhiều hiện vật bằng đồng. Ngay dưới làng Bán Pha, 3,5m là di chỉ khảo cổ khác, được gọi là Bán Pha 2, niên đại 12.000 năm. Tại đây người ta tìm được một bình gốm dính ở đáy một chất giống như cặn chè. Đặc biệt là bề mặt bình có văn bản khắc chữ tượng hình giống chữ Trung Hoa cổ, mang tính biểu tượng cao nhưng không giống với tự dạng chữ Hán hiện đại. Nhóm của tiền sĩ Jeff Schonberg Đại học Angelo, bang Texas, Hoa Kỳ cố gắng tìm mối liên hệ với tiếng Trung Quốc để giải mã câu chuyện. Một câu chuyện đạo đức như là nghi lễ chữa bệnh. Để hiểu hiệu lực của câu chuyện cần tìm hiểu cảnh quan tinh thần vùng Tây An. Miền quê này có nhiều gò đất thiên mang tinh thần bái vật giáo, được coi như những ông thầy dạy cách canh tác cũng như phép ứng xử…câu chuyện trên cái bình liên quan đến “hành vi xấu” mà ngôn ngữ ngày nay gọi là “sự kiêu ngạo”. Sự kiêu ngạo này không phải do con người đối xử với nhau mà với thần linh, thể hiện ở chỗ phớt lờ hay không tôn trọng sự khôn ngoan của các vị thần. Câu chuyện trên cho thấy: hành vi xấu làm sa đọa tinh thần cùng sự cứu rỗi.

Có một thời đen tối

Thế giới bị đảo lộn.

Thời kỳ ảm đạm xảy ra do con người ứng xử tồi tệ và xúc phạm Thủy thần.

Do vậy con người bị bệnh tật.

Quan hệ giữa người và người trở nên rối loạn.

Phương thức cứu chữa:

Con người đến thưa với Sơn thần.

Sơn thần biết lý do khiến Thủy thần giận dữ.

Thần khuyên con người phải làm cuộc hành hương cứu rỗi.

Trên dãi núi xa sẽ thấy một loại cây hay mang về chế thành chè uống.

Sự tha thứ xảy ra, bịnh sẽ khỏi và bóng tối biến thành ánh sáng.

Dân địa phương cho biết: câu chuyện trên vẫn được truyền miệng trong vùng Tây An.

Một câu hỏi: phải chăng cây chè được phát minh đầu tiên trên mảnh đất sau này là Sơn Tây, Trung Quốc? Nếu vậy, phải chăng tục uống chè đã từ Trung Quốc truyền xuống Việt Nam? Một câu hỏi không dễ trả lời.

May sao, gần đây bạn tôi, một nhà nghiên cứu về trà cho biết, trong ngôi mộ cổ 13.000 năm tuổi đào được ở Bắc Việt Nam đã tìm thấy một quả chè. Sao lại có quả chè trong mộ? Một sự ngẫu nhiên chăng? Quả chè đâu phải là vật tùy táng để chôn theo người chết? Phải chăng, từ xa xưa, tổ tiên ta đã cho chè khô vào quan tài người quá cố khi khâm liệm? Tôi tin thế và vô cùng cảm ơn cha ông cho ta một tập quán đẹp, cho thấy cây chè gắn bó với người Việt đồng thời cũng là việc làm hợp vệ sinh. Như vậy, rõ ràng là, người Việt chúng ta phát minh ra cây chè sớm nhất. Ngoài những vườn chè được trồng mọi nơi mọi chốn, chúng ta còn có số lượng lớn cây chè hoang dã, nguồn gen vô tận cho việc chọn giống, nâng cao chất lượng chè. Nhưng vì sao chè Việt Nam chưa có thương hiệu, chúng ta vẫn là đất nước sản xuất loại chè phó sản?

Phải chăng có điều gì đó thuộc về số phận, thuộc về văn hóa khiến cho, là người sáng tạo ra nhiều thứ nhưng chúng ta không giữ được bản quyền và càng không bao giờ nâng sản phẩm của chúng ta tới mức tuyệt hảo?