Tác giả: Lý Khắc Cung
Người sành rượi, trước hết cầm lấy chai rượi, ngắm nghía một lát, như say đắm, như vuốt ve chai rượi, thận trọng mà âu yếm nồng nàn như cái kiểu giải y một cô gái. Anh ta lại đặt chai rượi xuống. Tay cầm chặt chiếc chén trong tay, ướm ướm. Chén rượi không có tai. Có thể là chiếc chén Bát Tràng, chén ở lò ông Thiếu hoặc chén cổ có men sáng, dưới đáy có chữ “Nội Phủ”. Quanh chén có vẽ chút thủy mặc và hai câu thơ:
Vị thủy đầu can nhật,
Kỳ sơn nhập mộng thần.
Anh ta rút nút chai bằng lá khô ra, ngửi ngửi rồi rót rượi ra chén. Thế là rượi hiện ra, dịu dàng, nõn nà, trong suốt. Có thể là độc ẩm hoặc là đa ẩm. Trong mấy người uống rượi với nhau, người ít tuổi hơn phải giữ ý. Khi nâng chén, không để chén của mình cao hơn chén của người nhiều tuổi.
Tay nâng chén rượi, người ta tớp một hớp thật nhỏ, khẽ chép miệng rồi mới uống tớp đầu tiên, tớp thứ hai… Người ta thấy tinh thần phấn khởi. Nỗi mệt nhọc được giảm đi. Tâm hồn nhẹ tênh. Người ta quên đi mọi bi kịch, mọi sự vụn vặt trong cuộc sống. Tự biến mình từ nô lệ của cuộc sống vật chất sang tự do. Người ta chuyển thực tế vào mộng một cách dễ dàng và êm ả.
Khi uống với bạn bè, người ta cùng uống, cùng say để tỏ tình thật với nhau, uống cho sự giao ước, hứa hẹn được bền vững. Con quỷ tinh nghịch trong rượi sẽ đưa người uống rượi trở về với những ngày vàng son. Họ trở nên dịu dàng, chan hòa, vui tươi.
Người sành rượi phải tri kỳ vị (biết vị của rượi); tri kỳ hương (biết hương thơm của rượi); tri kỳ ảo (biết sự huyền ảo); tri kỳ linh(biết cái linh hồn của rượi)…
Người ta uống nếm; uống thưởng thức; uống lấy say. Uống kiểu chén thù chén tạc là uống hai người: chủ và khách. Bên chủ là bên “tạc”có nghĩa là chúc mừng. Bên khách là bên “thù” có nghĩa là uống đáp lại.
Người ta uống đứng, uống ngồi, vừa đi vừa uống… Người đàn ông lý tưởng một thời xưa kia phải là người tài hoa phải biết cầm (đàn hát); kỳ (đánh cờ); thi (làm thơ); họa (vẽ)… Nhưng lại phải biết cả tửu (uống rượi) mới trọn vẹn. Tửu cũng chiếm một địa vị quan trọng.
Những người cầu kỳ hoặc tao nhân mặc khách khi uống rượi yêu cầu phải có một không khí phù hợp, người uống với mình phải “ngon”, rượi phải ngon, thức nhắm phải ngon…
Người giàu có uống loại rượi đắt tiền hơn và có kẻ hầu người hạ làm các món nhắm. Người có chữ nghĩa, vừa uống rượi vừa làm thơ làm phú, đọc cho nhau nghe những áng văn hay. Có khi họ vừa uống vừa thưởng thức giọng hát ca trù của các đào nương. Họ đưa sáng tác của họ ra để các đào nương trình bày. Người nghèo thì uống “suông”. Cũng có khi thức nhắm là quả sung, quả ớt, quả ổi hoặc quả nhót cũng xong. Gọi là rượi nhạt, rượi suông.
Trong những bữa rượi, người ta xếp những người ngang tuổi ngồi với nhau, những người có chức sắc ngồi với nhau hoặc bình dân ngồi với nhau. Nhưng khi uống rượi kiểu “chén chú chén anh” thì thật thoải mái, bình đẳng. Chẳng phải giữ kẽ gì tha hồ mà mồm nhai, tai nghe… Đó là cái thú dân dã và đặc biệt.
Cũng có nhiều kiểu say: say khướt, say khướt còn bợ, say tít cung mây, say túy lúy càn khôn, say mềm, say mê mẩn đời, say ngà ngà, say không biết trời đất là gì v.v… Lẽ dĩ nhiên cũng thường có chuyện “rượi vào lời ra” hoặc quá chén mà xảy ra những điều đáng tiếc.
Ở thời xa xưa, những người dân ở vùng cao đều uống rượi cần. Mọi người uống tập thể từ một vòi rượi. Nhưng rồi một số di dân xuống đồng bằng, họ sống trong môi trường mới, không uống rượi cần nữa. Họ đã quên kiểu uống rượi này đi. Nhưng những người anh em của họ ở lại miền cao vẫn còn giữ được cái nếp uống rượi cần. Tính cộng đồng của việc uống rượi cần rất cao. Họ vui cùng nhau bên chén rượi cần, sống cùng nhau và chết cùng nhau.
Việt Nam Sắc Hương Xưa
NXB. Thanh Niên, 1998.